Giáo Từ Môn Hạ Trước Khi Vào Thất (Phần 03): Hòa Thượng Nhắc Nhở Ni Chúng Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt
21/08/2025 | Lượt xem: 3
HT.Thích Thanh Từ
Trước khi đóng cửa nhập thất một năm, Thầy có ít lời cần yếu nhắc nhở, sách tấn ni chúng cố gắng tinh tấn tu hành, đặc biệt là những vị mới xuất gia. Sau đó Thầy sẽ đi sâu vào trọng tâm của sự tu cầu giải thoát sanh tử.
Xuất gia là “cát ái từ thân”, cắt đứt sợi dây yêu mến của cha mẹ, từ biệt cha mẹ để vào chùa tu. Cha mẹ là người thân yêu nhất trong đời mình, vậy mà chúng ta dám phát nguyện quyết tâm xa lìa. Thật là ý chí cương quyết mãnh liệt, một việc làm phi thường, người yếu đuối không sao kham nổi. Thế nhưng vô chùa thỉnh thoảng lại kết thân người này người kia, rồi thương qua thương lại, tới chừng bị rầy thì buồn tủi khóc lóc. Tình thân cha mẹ, anh em, quyến thuộc là căn bản nhất mà chúng ta còn cắt được thì đâu có gì đáng để cột trói thêm.
Đối với huynh đệ trong đạo, chúng ta chỉ thương, giúp nhau vì đồng một chí nguyện tu hành, đừng nên dính mắc cột trói khiến phải phiền não. Trong quy chế của thiền viện Trúc Lâm, Thầy nghiêm khắc cấm kỵ điều này. Bởi quy chế như vậy cho nên quý vị không dám dính mắc đậm, nhưng cũng có có dính mắc nhè nhẹ. Tuy nhiên Thầy vẫn thường xuyên nhắc nhở trong chúng, không nên cột trói mình một cách vô lý như thế. Phát tâm vào thiền viện phải một bề lo tu hành để sau này được giác ngộ, quay về độ cha mẹ khả dĩ mới đền đáp nổi ơn sinh thành dưỡng dục, không phải vô chùa sống cho qua ngày hết tháng. Tu thì phải cương quyết như vậy.
Kế đây, Thầy nói về chủ trương đường hướng tu tập tại thiền viện Trúc Lâm. Thầy từng tuyên bố nơi này là lý tưởng tối hậu của đời mình. Vậy lý tưởng đó ở chỗ nào? So với các thiền viện khác như Thường Chiếu, Chơn Không, Linh Chiếu v.v… thì nơi này điều kiện tu học tương đối được như ý hơn. Ở đây thiền viện hoàn toàn lo hết mọi mặt, ai có nhu cầu gì cũng được đáp ứng đầy đủ. Về ăn mặc thì lo đủ, về thuốc men thì chu đáo, xung quanh cũng chẳng có ai bán bánh kẹo để tụi con mua. Thành thử việc tụi con giữ tiền riêng chỉ là vô ích. Nếu một người giữ tiền, người khác bắt chước giữ theo, hoặc thấy người này có mình không có thì sanh tâm lén ăn cắp. Từ đó sanh đủ chuyện vui buồn không tốt trong thiền viện.
Tất cả nhu cầu của tụi con, thiền viện lo lắng chu toàn hết, không có lý do gì để tụi con phải giữ tiền riêng cả. Ai cúng gì ăn nấy, vải mặc thì đồng một màu, cho đến dép đi cũng y hệt nhau. Tuy những vật dụng mình dùng không được tốt nhưng không bao giờ thiếu, không cần thiết phải đi mua. Thiền viện lo được như vậy để tụi con yên tâm tu, không phải bận rộn với cái ăn cái mặc nữa.
Bên tăng cũng như bên ni đều có sẵn một cái kho. Ai mất đôi dép đến xin dép mới, ai áo rách đến đổi áo lành, ai đau bệnh được cấp thuốc men v.v… Đó là những điều rất thiết yếu giúp tụi con yên ổn tu hành. Như vậy không ai móng tâm vui buồn về người có tiền, người không tiền nữa. Lối sống này rất bình đẳng và hòa hợp. Tụi con sống trong điều kiện tốt như vậy, tất nhiên phải tu hành hay và giỏi hơn mới xứng đáng. Đây là điều thứ nhất chứng minh được lý tưởng tối hậu của Thầy.
Về khí hậu, Đà Lạt khá mát mẻ, không lạnh lắm cũng không quá nóng. Cho nên lúc tọa thiền chúng ta rất yên ổn vì không bị đổ mồ hôi nhiều. Ở Thường Chiếu khí hậu nóng lắm, ngồi thiền mồ hồi ướt áo, bứt rứt không yên. Tu mà thân không khỏe, tâm không nhẹ nhàng khinh an thì khó tiến. Nơi đây tụi con được khí hậu ưu đãi cho nên sự tu dễ tiến bộ.
Ngày trước xung quanh thiền viện chúng ta toàn là đất rừng, rất yên tĩnh, bây giờ thì có thêm xóm làng. Thời gian gần đây Thầy thấy một điều không ổn, mình sống trong rừng mà nuôi chó nhiều quá. Lẽ ra được sống ở môi trường như vậy để yên tịnh tu hành, đằng này lại nuôi chó quá nhiều. Đám chó trên thiền viện thỉnh thoảng rầy lộn với đám chó dưới xóm, Thầy ở giữa lãnh đủ. Hôm trước mười một giờ đêm nó rầy lộn một chặp, Thầy phải thức giấc. Đến mười hai giờ nó rầy lộn một chặp nữa, thành ra Thầy thức luôn, suốt đêm ngủ không được.
Nhiều khi giờ đại chúng ngồi thiền mà nó làm ồn thì trở ngại cho sự tu rất lớn. Chúng ta tu thiền rất cần sự yên tĩnh mà ồn ào như vậy thì không được lợi ích gì. Thầy đã lựa chỗ tốt cho tất cả yên tu, nếu không giữ gìn được là một khuyết điểm rất lớn. Mong rằng tăng ni đều sửa lại, đừng để chuyện này xảy ra hoài không tốt. Đã là nơi lý tưởng thì nhất định chúng ta phải giữ gìn và củng cố những điều kiện tốt, tránh để thiền sinh bận tâm lo lắng mất công phu.
Chúng ta cần sáng suốt nhận định, phải vui mừng mình được phước duyên tốt gặp thầy bạn, chỗ nơi đàng hoàng đúng như ý nguyện xuất gia nên chỉ một bề nỗ lực tiến tu. Đừng nuôi tâm tưởng hướng ngoại mà tu không yên. Khi xách gói đi rồi càng không yên nữa, chạy hoài chạy riết rốt cuộc thả trôi một đời tu. Có khi còn thối tâm Bồ-đề, bỏ đạo theo thế tục thật đáng xấu hổ. Đâu ai bắt mình tu, mình tự nguyện xuất gia tu đạo giải thoát mà ngược lại làm những điều trái với tinh thần giải thoát.
Thầy luôn tâm niệm làm việc gì phải vuông tròn và đúng với sở nguyện thì Thầy mới hài lòng. Hiện tại Thầy đã gầy dựng được thiền viện Trúc Lâm, nên mới tuyên bố mạnh mẽ đây là nơi lý tưởng tối hậu. Tụi con phải tin tưởng vào điều đó mà nỗ lực tu hành. Đừng ngóng trông rồi tìm kiếm chỗ này chỗ kia làm chi cho phiền nhọc. Căn bệnh chung của đa số mọi người là ở hoài một chỗ dễ chán, lâu lâu muốn đổi cảnh. Nhưng càng tìm chỗ mới càng thêm phiền hà, không có lợi ích gì hết. Tăng ni phải quyết chí tu hành cho được kết quả, đừng lôi thôi. Đó là điều quan trọng cần phải biết.
Khi chúng ta được hỏi thầy cô tu để làm gì, đa số đều đáp: “Tôi tu để giải thoát sanh tử.” Hỏi tiếp: “Giải thoát sanh tử là đi đâu?” Nếu là người tu Tịnh độ sẽ nói: “Được sanh về Tây phương Cực lạc.” Tuy nhiên về Cực lạc vẫn chưa phải là giải thoát sanh tử. Tới đó rồi lại tiếp tục tu đến chừng nào chứng vô sanh pháp nhẫn mới thực sự giải thoát. Muốn về Cực lạc phải niệm Phật tới nhất tâm bất loạn.
Chúng ta tu thiền đi đâu? Ngay đây biết tu thì cũng được giải thoát sanh tử, không cần đợi mai kia về Cực lạc. Nghĩa là phải chuẩn bị cho mình đường đi rõ ràng, làm sao ngay trong đời này đi thẳng đến chỗ giải thoát một cách rốt ráo. Đức Phật thương xót chúng sanh không chỉ vì những nỗi khổ như đói rách, nghèo túng hoặc phiền não. Ngài thương chúng sanh bị chìm lặn mãi trong biển khổ sanh tử, cứ trồi lên hụp xuống liên tục, chưa thoát ra được. Thật là đau khổ!
Bây giờ nếu tụi con không quyết tâm tu thì cũng vậy thôi. Đời này được làm người tới chừng hết tuổi thọ tái sanh làm gì vẫn chưa biết. Cứ vậy chết đi sống lại, lẩn quẩn mãi trong lục đạo không có ngày dừng. Phật thấy chúng sanh thật đáng thương, vậy mà chúng ta có thương mình đâu. Đức Phật đã phương tiện lập bày nhiều pháp môn cho chúng ta tu hành để ra khỏi biển khổ trầm luân. Chừng nào bước lên được bờ giải thoát, chừng đó mới thảnh thơi. Niềm vui này không gì có thể sánh bằng. Hiện giờ tụi con đắp y giải thoát lên mình là chuẩn bị bước tới bờ an vui. Nếu không chịu bước lên, nửa chừng đòi tuột xuống thì đáng trách lắm.
Chúng ta có mặt trên đời này không phải một lần mà đã trăm ngàn ức lần rồi. Giả sử đời này được sanh trong cảnh giàu sang, mai mốt già chết biết có còn sanh vào cảnh giàu sang như bây giờ không. Nếu chẳng tu tạo phước lành, lại còn tạo tội thì đời sau nhất định khổ. Đang sống đây thì đầy đủ tất cả quyền lực, sự nghiệp trong tay, nhắm mắt rồi không còn gì là của mình hết. Như vậy thân này là gốc, sự nghiệp bên ngoài chỉ là ngọn thôi. Gốc mất, ngọn coi như vô nghĩa. Vậy mà người đời cứ lo kiếm thật nhiều tiền của, khi ra đi để lại cho con cháu. Rốt cuộc con cháu có biết giữ đâu, nó làm tiêu tan hết.
Thầy chủ trương xây dựng nhiều thiền viện, nhưng cuối cùng Thầy đâu giữ cái nào. Ai có khả năng gánh vác ở đâu Thầy đều giao hết, mọi việc tự lo liệu lấy. Thầy sống trong một cái thất là đủ, mai mốt nhắm mắt đệ tử thương đem chôn và xây tháp là tốt rồi. Cả một cuộc đời lo lắng, sắp đặt đáo để cuối cùng xuôi tay không thể mang theo được cái gì. Đời này tạo dựng bao nhiêu đó, đời sau tạo tiếp, rốt cuộc thành của ai. Nhiều khi tạo dựng còn sanh phiền não đủ thứ. Bởi vậy đừng ham bất cứ thứ gì, thân này còn chẳng giữ được huống nữa những thứ bên ngoài.
Chúng ta tu cốt để giải thoát sanh tử, ra khỏi vòng trầm luân thống khổ. Trầm là chìm, luân là lộn tới lộn lui trong biển khổ sanh tử. Chìm trong đó mà đâu ai biết, sanh ra đời thì vui vẻ hăng hái làm đủ thứ chuyện, khi thọ mạng hết thì chết, chết rồi lại sanh. Làm người nếu không biết tu thì sung sướng ít mà đau khổ nhiều, coi thân như vàng ngọc nên rất sợ bị chê bai. Nhưng rốt cuộc tới chừng chết, thân này chỉ là đồ bỏ, không nghĩa lý gì hết.
Người tu phải thấy cái khổ của luân hồi sanh tử, còn chìm đắm trong đó sẽ không có ngày thoát ra. Hàng xuất gia đắp trên mình tấm y giải thoát là đang bước trên đường tiến tới giác ngộ an vui. Nếu ngồi trên bè phương tiện này mà không khéo, để nó hư nát thì hết cơ hội tu tập, phải chìm nổi trong bể khổ không cùng tận. Hiểu chỗ này mới thấu cảm lòng từ bi rộng lớn của đức Phật. Nghèo khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn chưa phải khổ, trầm nịch trong luân hồi sanh tử mới là cái khổ lớn nhất của nhân loại.
Chúng ta tu muốn ra khỏi sanh tử thì phải quyết chí, can đảm thực hành những điều Phật dạy, đừng tu lừng chừng lấy có. Ngày đêm hằng nhớ tu, không lúc nào dám chểnh mảng. Mạnh mẽ chèo chống con thuyền Bát-nhã đưa mình vào bờ an vui giải thoát. Nên nhớ giải thoát là trọng tâm của sự tu hành. Sở dĩ chúng ta tu mà không được giải thoát là lỗi tại đâu? Tại tâm không định, trí không sáng.
Pháp tu chúng ta đang thực hành là buông xả hết niệm khởi, bởi vì niệm là nhân tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử. Nghĩ thương tạo nghiệp ái, nghĩ ghét tạo nghiệp oán thù. Nghĩ này nghĩ nọ, thương ghét buồn vui kết thành đủ thứ nghiệp. Vì vậy muốn ra khỏi sanh tử nhất định phải lặng hết nhân tạo nghiệp.
Khi ngồi thiền, bắt buộc tụi con phải buông xả hết niệm khởi, dù là niệm tốt cũng không theo. Niệm thiện sanh cõi lành, niệm ác sanh cõi dữ, đó là đường đi của người còn mê lầm. Bởi vậy Lục tổ chủ trương “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác”, vì còn nghĩ là còn đi trong sanh tử. Mỗi người tự kiểm lại tâm mình, niệm nhiều đảm bảo đi trong sanh tử, không nghi ngờ. Ngồi thiền để tâm yên định, yên tới chừng nào vắng lặng nhất như thì mới giải thoát sanh tử. Đó chính là gốc của sự tu.
Đối với pháp môn niệm Phật, muốn được giải thoát thì phải niệm tới vô niệm. Còn pháp tu thiền ở đây Thầy bắt tụi con đêm nào cũng ngồi hai tiếng đồng hồ. Dù gục lên gục xuống cũng bắt ngồi, coi như tàn nhẫn đối với tụi con nhưng không ngờ đó là thương đáo để. Do tâm tụi con quá lăng xăng lộn xộn, nếu không ngồi kìm chế thì nó cứ chạy hoài, tu không tới đâu hết. Cho nên Thầy bắt ngồi để buông xả tâm sanh diệt đó.
Khi tụi con ngồi thiền, đứa nào ngủ gục sẽ được Giám thiền thức tỉnh bằng cách dùng thiền bản đánh, vì sợ tụi con si mê đi trong hang quỷ tăm tối. Hoặc kìm chế cho tụi con đừng loạn động nữa, nên vị giám thiền phải chịu cực đi tới đi lui. Đánh thức tụi con như vậy là thương chứ đâu phải ghét. Vậy mà vài đứa không hiểu, bị đánh thì quạu muốn cự lại. Khi ngồi tu, một là không loạn tưởng, hai là không ngủ gục, luôn luôn tỉnh sáng khả dĩ công phu mới tăng tiến.
Trong con người chúng ta luôn tồn tại hai thứ tâm: tâm sanh diệt và tâm không sanh diệt. Tâm sanh diệt là nghĩ thiện ác, tốt xấu đủ thứ, liên miên không dừng và dễ nhận biết. Tâm không sanh diệt hằng có mà chúng ta ít sống được với nó, do bị tâm sanh diệt che phủ.
Lúc nào chúng ta cũng thấy “tâm tôi đang suy nghĩ”, hoặc “cái suy nghĩ đó là tâm tôi” v.v… Cái suy nghĩ là nhân tạo nghiệp mà chấp làm tâm mình thì muôn đời không ra khỏi sanh tử.
Chỗ này tụi con phải hiểu thấu đáo rồi ứng dụng tu, khả dĩ mới không bị lầm lẫn. Tâm sanh diệt còn là mầm sanh tử còn. Muốn hết tâm sanh diệt, nhất định phải lặng hết tất cả niệm tưởng. Giả sử lúc nào đó tụi con ngồi dưới gốc cây chơi, bất thần không nghĩ gì trong một khoảng thời gian. Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, gió thổi biết mát, cái biết sẵn sàng và trùm khắp thân này. Biết một cách tự nhiên, chứ không khởi niệm gì cả. Cái hằng biết đó mới là tâm chân thật không sanh diệt. Tuy nhiên hầu hết chúng ta lại thích suy nghĩ và không sống được với cái sẵn sàng hồn nhiên của mình. Chừng nào sống trọn vẹn được với tâm không sanh diệt thì nhất định giải thoát sanh tử.
Dù chúng ta không thấy nghe nhưng cái thường biết luôn tồn tại. Tụi con có đứa nào sẵn sàng buông tất cả để sống với cái thực của mình chưa, hay nhiều khi muốn buông mà buông không được, cứ nắm hoài? Tu thì phải can đảm gan dạ. Có cái thực mà không chịu sống với nó, mải chạy theo cái giả dối bên ngoài. Cái chân thật hay nghe hay thấy hay biết, không do suy nghĩ. Nó tràn ngập khắp thân này chứ không hạn cuộc tại một chỗ. Nếu chúng ta khởi nghĩ thì nhớ cái mình nghĩ, quên cái chân thật. Bây giờ tập làm sao vừa khởi nghĩ không theo, dừng liền. Tập riết thành quen, lâu dần sẽ sống được với cái thật của mình.
Tu không phải chuyện mò trăng đáy nước, lầm nhận bóng là mặt trăng thật. Tu là phăng tìm cho ra cái thật của mình. Đó là một lối nói, thực sự chỉ cần gạt bỏ những cái không thật qua một bên thì cái thật hiện ra. Phật nói tất cả chúng sanh đều có tánh thật, tâm thật, tâm Phật mà không sống được với nó. Mải mê làm chúng sanh hoài thật đáng thương. Bởi vậy tu là cốt trở về với cái thật của chính mình. Cái đó đầy sẵn nơi mình, không gì có thể làm chìm mất hoặc trôi lăn đi đâu hết. Còn niệm hơn thua, phải quấy, tốt xấu là cái sanh diệt, quay lại tìm thì nó mất tiêu.
Vì vậy, khi ngài Huệ Khả cầu pháp an tâm, tổ Đạt-ma dạy “Đem tâm ra ta an cho”. Ngài Huệ Khả xoay lại tìm tâm sanh diệt thì không thấy, nên bạch Tổ “Con tìm tâm không được”. Chính cái tìm không được ấy mới thật là tâm chân thật. Lâu nay chúng ta lầm cho cái không thật là tâm mình, bỏ quên tâm chân thật, chạy theo vọng tưởng giả dối. Sống với tâm sanh diệt thì ưa thích thuận duyên và chán ghét nghịch duyên. Cho nên ai cũng thích cái ngã mình được bảo vệ, nâng niu. Được khen có ai buồn đâu, nhưng bị chê chút ít là xịu mặt liền.
Chư Bồ-tát luôn sống với cái thật của mình, cho nên khen chê chỉ là việc bên ngoài, không quan trọng. Chúng ta cũng nên thận trọng, chưa chắc người ta khen mình mà thật đâu. Giả sử nghe ai đó bình phẩm: “Chà! Sư tỷ tu hay quá” hoặc “chị tu lôi thôi lắm” thì đừng vội mừng hay giận. Tu cho mình chứ tu cho họ đâu mà mừng giận. Mình tu hay tu dở tự mình biết, dù họ có khen chê cũng chẳng thay đổi được gì. Chúng ta tập thản nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh, đừng quá lệ thuộc cái bên ngoài.
Điểm trọng yếu của sự tu là lặng bớt tâm sanh diệt, chừng nào lặng hết gọi là tâm như như. Đó cũng là đầu mối của giải thoát sanh tử. Khi ngồi thiền, nếu tụi con tỉnh táo bình thường, tâm vắng lặng, thấy nghe một cách rõ ràng tường tận mà không một niệm phân biệt là đang sống với tâm thật của mình. Nếu ngồi đó mà ngủ gục là tâm si mê không sáng suốt. Thà là loạn tưởng dấy nghĩ này kia, rồi biết buông thì sự tu còn có giá trị, chứ để ngủ miên man, chập chờn thì không được lợi ích gì hết.
Vị giám thiền có trách nhiệm thức tỉnh mình khi ngủ gục, cho nên chúng ta phải mang ơn chứ không nên hờn giận. Mục đích của việc ngồi thiền là phát sanh trí tuệ, hằng sống được với trí tuệ chân thật của mình. Muốn vậy thì phải luôn tỉnh táo, niệm khởi liền buông mới có trí tuệ. Ngược lại, niệm khởi mà chạy theo là si mê. Đường lối tu thiền của chúng ta áp dụng theo tông chỉ của Lục tổ, tức là định tuệ đồng thời. Vừa dấy niệm là mê, biết niệm liền buông là giác. Dấy niệm mà thấy là tuệ, buông niệm thì được định. Định tuệ không tách rời nhau. Đây là điểm trọng yếu của sự tu, tụi con phải nắm cho thật kỹ để khi thực hành không bị lầm lẫn.
Tụi con cố gắng công phu, chừng nào ngồi thiền được một giờ yên lắng, tâm an định, tức là nhân sanh tử dừng dần. Khi nào ngồi thiền hai tiếng mà tâm vắng lặng đều đều là chuẩn bị ra khỏi sanh tử. Đây là điều thế gian không bao giờ hiểu nổi, không cái vui nào của thế gian có thể bì được. Giải thoát hết mọi ràng buộc, mãi mãi không trở lại trầm luân, chừng đó chúng ta mới thật biết thương những người còn trầm nịch trong luân hồi. Hiểu mục đích cao thượng của sự tu rồi thì tụi con mới có định hướng đúng đắn, nếu không thì ngơ ngơ ngáo ngáo tu không tới đâu hết.
Thời gian qua Thầy dành trọn đời mình lo giáo hóa tăng ni và Phật tử biết đường lối tu hành, cho nên công phu tự thân chưa được rốt ráo. Thí dụ, sáng mai có buổi giảng thì tối nay ngồi thiền soạn bài. Tuy là niệm thiện nhưng vẫn thuộc về sanh diệt, vì còn động tâm. Ngày nào cũng giảng dạy như vậy, nếu không tranh thủ giờ tu để soạn bài thì làm sao cho kịp. Bởi vậy, ngồi thiền chưa bao giờ được yên trọn vẹn. Thời gian gần đây Thầy thấy việc giáo hóa đã tạm ổn, hơn nữa nhiều đệ tử lớn có thể thay Thầy gánh vác Phật sự, ngang đây Thầy buông tay nghỉ. Những năm cuối đời Thầy quyết tâm phải tu tới nơi tới chốn, không thể lừng chừng nữa.
Bởi vậy một năm qua Thầy dành thời gian riêng cho mình, tuy không ngồi thiền nhiều, chỉ ngồi chơi, nằm võng chơi, đi chơi vậy thôi. Thấy như thảnh thơi nhưng sự thực Thầy đang hành công phu liên tục. Lợi dụng hoàn cảnh hiện tại không có việc gì thì đi đứng nằm ngồi đều tu được hết. Tập cho tâm mình yên suốt ngày chứ không phải yên một khắc, một chút nào đó. Tuy nhiên năm rồi còn nhiều chuyện lăng xăng, nên Thầy chưa yên được hoàn toàn.
Người tu muốn được yên thì phải vô sự, bởi vì hữu sự thì hữu lự. Lự là lo lắng, lo lắng nên lăng xăng không yên. Việc đến thì phải lo, giờ không muốn khởi niệm lo thì đừng có việc. Cho nên vô sự tức là để mình chơi tự do, đóng cửa thất không cho ai vô. Vì mỗi người đem theo chuyện này chuyện nọ nói làm mình phan duyên, cho nên năm rồi mới bớt việc được sáu chục phần trăm. Năm nay Thầy quyết định phải đóng cửa kín hơn, ai thương thì đừng làm rộn để Thầy có thời gian dài sống với cái thật của mình. Có như vậy mới đi tới giải thoát sanh tử được.
Khi ra khỏi vòng sanh tử rồi mới thể nhập được pháp thân. Pháp thân thì trùm khắp, cũng như hư không bao trùm cả vạn tượng. Thầy thường nhắc, hư không lúc nào cũng giúp đỡ chúng ta cho nên chúng ta phải biết ơn nó. Vậy thì người nào thể nhập được pháp thân rồi sẽ tùy duyên trở lại bằng ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Việc làm lớn nhất và quan trọng nhất của người tu là sống được với cái chân thật trùm khắp của mình. Thầy là người đi đầu cho tất cả tăng ni trong các thiền viện và Phật tử tu theo. Chẳng lẽ Thầy giậm chân một chỗ không tới đâu hết mà bảo người khác đi theo thì đâu ai tin được. Cho nên Thầy phải đi tới tận chỗ tột cùng thì người khác mới phát tâm đi theo.
Thầy đóng cửa nhập thất thấy dường như vô trách nhiệm không lo cho ai, nhưng rốt cuộc đó là cơ hội để Thầy làm tròn bổn phận của một người dẫn đường. Làm sao đi tới nơi tới chốn cho mọi người bắt chước đi theo. Đó là điều rất quan trọng. Thành thử thời gian một năm tới phải miên mật hơn, vô sự hơn, không thể tiếp tục lừng chừng nữa. Đi đứng nằm ngồi gì Thầy vẫn nhớ làm việc của mình, chứ không để loạn tưởng chi phối. Người vô sự là trong tất cả các oai nghi lúc nào cũng miên mật tu hành.
Thầy nhận rõ một điều, mình vừa làm vừa tu thì kết quả tu được ít. Bây giờ Thầy buông hết mọi việc để ngồi yên tu và thấy rõ ràng có tiến. Điều này cụ thể chứ không nghi ngờ chút nào, cho nên đây là năm thứ hai Thầy đóng cửa nhập thất. Người tu ít nhất phải có ba năm miên mật chuyên tu như vậy, khả dĩ tới được chỗ rốt ráo tột cùng. Đó là những điểm quan yếu trên đường tu Thầy nhắc nhở tụi con, mong rằng trong chúng ai nấy đều cố gắng giữ vững niềm tin và đi cho trọn con đường tu hành.
Các bài mới
- Giáo Từ Hàng Môn Hạ Trước Khi Vào Thất (Phần 02): Hòa Thượng Nhắc Nhở Ni Chúng Thiền Viện Linh Chiếu - 08/08/2025
- Giáo Từ Hàng Môn Hạ Trước Khi Vào Thất (Phần 01): Hòa Thượng Nhắc Nhở Ni Chúng Thiền Viện Viên Chiếu - 31/07/2025
- Quên mình theo vật - 17/07/2025
- Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm - 13/07/2025
- Điều Phục Thân Tâm - 10/06/2025
Các bài đã đăng
- Nói Rõ Đường Lối Tu Hành - 27/05/2025
- Đạo Phật Là Đạo Giác Ngộ - 28/04/2025
- Đức Phật Là Bậc Vô Thượng Y Vương - 26/04/2025
- Ý nghĩa xuất gia - 04/03/2025
- Niềm Vui Chân Thật - 01/02/2025
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 87875
- Online: 9